Nhìn lại 10 năm phát triển công tác an toàn, vệ sinh lao động
Ngày 28/8/2023, tại Hà Nội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tổ chức toạ đàm “Nhìn lại 10 năm phát triển công tác an toàn, vệ sinh lao động tại Việt Nam”.
Tọa đàm được tổ chức để đánh giá việc triển khai tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 18/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đồng thời đánh giá việc thực hiện Công ước số 155 về an toàn, vệ sinh lao động, môi trường lao động và Công ước 187 về cơ chế tăng cường công tác an toàn vệ sinh lao động của Tổ chức Lao động quốc tế ILO.
Phát biểu tại tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết, công tác an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thông qua các văn kiện, nghị quyết xuyên suốt trong nhiều năm qua, đặc biệt là các quy định về quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ); việc tuân thủ pháp luật của người sử dụng lao động cũng như các chế độ chính sách của người lao động.Với mục tiêu nhìn lại 10 năm phát triển công tác an toàn vệ sinh lao động tại Việt Nam, các ý kiến đóng góp của đại diện bộ ngành Trung ương, các tổ chức chính trị xã hội, hiệp hội nghề nghiệp… sẽ đưa ra một bức tranh toàn cảnh về công tác ATVSLĐ của Việt Nam, nhìn nhận điểm mạnh và điểm yếu, rút ra bài học để đưa ra những định hướng, giải pháp triển khai trong thời gian tới.Trong 10 năm qua, công tác Quản lý ATVSLĐ đã được đẩy mạnh nhất là sau khi Chỉ thị số 29-CT/TW của Ban Bí thư “Về đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” và Luật An toàn, vệ sinh lao động được ban hành, nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động về công tác ATVSLĐ được nâng cao rõ rệt.Các hoạt động ATVSLĐ đã chú trọng đến công tác phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tăng cường cải thiện điều kiện lao động, xây dựng văn hóa an toàn trong sản xuất, gắn ATVSLĐ với bảo vệ môi trường, mở rộng việc quản lý ATVSLĐ ra khu vực phi chính thức…Phạm vi thống kê tai nạn lao động được mở rộng đến khu vực không có quan hệ lao động từ năm 2016, số liệu thống kê ngày càng đầy đủ hơn, cộng thêm sự gia tăng về quy mô lao động, sản xuất, đặc biệt trong một số ngành lĩnh vực như xây lắp, điện, cơ khí, khai khoáng, số tuyệt đối về tai nạn lao động mặc dù có xu hướng gia tăng về số vụ nhưng mức độ nghiêm trọng giảm. Tai nạn lao động chủ yếu xảy ra đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có nguy cơ cao về mất an toàn lao động và gia tăng ở khu vực không có quan hệ lao động.
Tuy nhiên, sau 10 năm, công tác ATVSLĐ của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Theo báo cáo khảo sát đánh giá từ các địa phương, doanh nghiệp, bộ, ngành, công tác tuyên truyền giáo dục về ATVSLĐ đã được cải thiện với nhiều hình thức đa dạng. Chính phủ và các bộ ngành và chính quyền địa phương các cấp đã quan tâm hơn tạo nên những chuyển biến rõ rệt trong nhận thức của người lao động và cộng đồng về ATVSLĐ. Nhưng hàm lượng ATVSLĐ trong chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa cao. Việc tuyên truyền giáo dục về ATVSLĐ cho khu vực không có hợp đồng lao động vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là thiếu thốn về nguồn lực.Thêm vào đó, sự thiếu hụt trầm trọng lực lượng công chức về ATVSLĐ là một vấn đề trong quá trình triển khai. Bên cạnh đó, năng lực cán bộ ATVSLĐ cũng hạn chế khi thường xuyên có sự luân chuyển nhưng công tác tập huấn nghiệp vụ lại gặp khó khăn về vấn đề kinh phí. Nguồn lực thanh kiểm tra về vấn đề ATVSLĐ cũng còn nhiều vướng mắc. Tình trạng mất ATVSLĐ vẫn diễn ra nhiều, tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vẫn là vấn đề đáng lo ngại. Tình hình tai nạn lao động còn phức tạp do chưa được thống kê đầy đủ. Bệnh nghề nghiệp ngày càng gia tăng ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ người lao động.Trước những vướng mắc trên, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã đề ra mục tiêu chung là tiếp tục chăm lo cải thiện điều kiện làm việc; giảm ô nhiễm môi trường lao động; chăm sóc sức khỏe người lao động; nâng cao nhận thức và tuân thủ pháp luật về ATVSLĐ; đặc biệt, ngăn chặn tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; bảo đảm an toàn tính mạng cho người lao động, tài sản của Nhà nước, tài sản của doanh nghiệp, của tổ chức và cá nhân, góp phần vào sự nghiệp phát triển bền vững của quốc gia. Bộ cũng phấn đấu đến năm 2033, trung bình hằng năm giảm 5% tần suất tai nạn lao động chết người.Cũng chia sẻ tại tọa đàm, Giám đốc ILO Việt Nam, bà Ingrid Christensen, đánh giá, 10 năm qua, Việt Nam đã dành được rất nhiều thành tích ấn tượng, trong đó Việt Nam đã ban hành được Luật An toàn vệ sinh lao động 2015. Bên cạnh đó, Việt Nam đã thực hiện được rất nhiều hoạt động nâng cao nhận thức cho nhiều đối tượng khác nhau.Bên cạnh những kết quả đạt được, theo Giám đốc ILO Việt Nam, hiện nay Việt Nam đang đối mặt với 4 thách thức lớn. Một là, hiện nay số lao động làm việc trong khu vực phi chính thức khá lớn, bên cạnh đó nhiều lao động đang dần chuyển sang các hình thức mới như lao động công nghệ, lao động làm việc tại nhà hoặc lao động làm việc sử dụng trí tuệ nhân tạo… Hai là tốc độ già hóa dân số của Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng. Đó là một bài toán phải giải để đảm bảo được an toàn, sức khỏe cho các lao động cao tuổi cũng như chú ý đến nhóm lao động trẻ tuổi cũng là vấn đề cần được chú ý. Ba là vấn đề thanh tra, theo đánh giá của ILO, là vấn đề khó không chỉ với Việt Nam mà rất nhiều quốc gia khác đang gặp phải. Bốn là vấn đề số liệu, hiện nay lao động Việt Nam làm việc ở cả khu vực chính thức và phi chính thức, những số liệu liên quan đến tai nạn lao động ở khu vực phi chính thức cần được báo cáo đầy đủ, rõ ràng, từ đó mới đưa ra được những giải pháp, giải quyết các vấn đề liên quan đến an toàn lao động ở khu vực này.Bà Ingrid Christensen cũng lưu ý, Việt Nam cần quan tâm đến tác động của biến đổi khí hậu đối với sức khỏe và an toàn của người lao động bởi đây là một trong những yếu tố quyết định đến việc giải quyết triệt để các vấn đề rủi ro liên quan đến an toàn lao động.